Bài viết chuyên sâuTạo hình nhân nhầy đĩa đệm thắt lưng bằng phương pháp nhiệt...

Tạo hình nhân nhầy đĩa đệm thắt lưng bằng phương pháp nhiệt điện nội đĩa (IDET)
T

TẠO HÌNH NHÂN NHẦY ĐĨA ĐỆM THẮT LƯNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP NHIỆT ĐIỆN NỘI ĐĨA (IDET)

GIẢI PHÁP MỚI THAY THẾ CHO PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ ĐAU THẮT LƯNG MẠN TÍNH

Tạo hình nhân nhầy đĩa đệm bằng phương pháp nhiệt điện nội đĩa (Intradiscal Electrothermal Annuloplasty – IDET) là phương pháp điều trị ít xâm lấn, chỉ định cho những bệnh nhân đau thắt lưng mạn tính. Nguyên nhân gây đau lưng mạn tính thường do một số dạng thoái hóa đĩa đệm hoặc do thoát vị đĩa đệm. Điều trị bằng kỹ thuật IDET có thể mang lại hiệu quả giảm đau tốt và giúp bệnh nhân tránh khỏi việc phải trải qua những cuộc phẫu thuật lớn như lấy bỏ đĩa đệm, cố định cột sống, ghép xương, thay đĩa đệm..

Phương pháp IDET lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1997 và từ đó, kỹ thuật này được áp dụng rộng rãi. Phương pháp được thực hiện bằng việc đưa một ống nhỏ vào đĩa đệm và đốt nóng lên bằng nhiệt điện. Thời gian hoàn thành phương pháp trên vào khoảng một giờ đồng hồ và bệnh nhân có thể ra viện trong ngày, nhiều đĩa đệm có thể được can thiệp cùng trong một lần thực hiện.

Cơ chế giảm đau chính xác của IDET vẫn đang còn được nghiên cứu, tuy nhiên, một số cơ chế được đề xuất bao gồm: dùng nhiệt phong tỏa đầu dây thần kinh cảm giác đau ở thành sau đĩa đệm, nhiệt gây co nhỏ mô collagen ở thành của đĩa đệm dẫn đến hàn gắn chỗ rách gây đau ở bao xơ đĩa đệm; kích thích sự hình thành, tạo collagen mới; phá hủy hoặc thay thế chất hóa học trung gian gây viêm hoặc đau bên trong mô đĩa đệm.

Quy trình thực hiện kỹ thuật IDET

Trước khi thực hiện IDET, bệnh nhân được nằm sấp, dùng giảm đau đường tĩnh mạch giúp tạo cảm giác thoải mái trong suốt quá trình thực hiện kỹ thuật. Đầu tiên, bệnh nhân được chụp đĩa đệm cản quang, phương pháp này gây kích thích đau cho bệnh nhân và mô phỏng những chỗ rách và thoát vị nhỏ ở thành sau đĩa đệm tổn thương (đĩa đệm tổn thương này đã được xác định trên phim chụp Cộng Hưởng Từ – MRI trước đó), nhờ đó có thể chỉ ra đĩa đệm có khả năng đáp ứng với điều trị bằng IDET hay không. Những tiến bộ trong phương pháp chụp đĩa đệm cản quang là sử dụng thiết bị tiêm kiểm soát áp lực đã cho phép bác sĩ xác định chính xác hơn đĩa đệm tổn thương và gây đau.
Sau khi đã xác định chính xác được đĩa đệm cần can thiệp trên phim Cộng hưởng từ và phim chụp đĩa đệm cản quang, dưới sự hướng dẫn của màn tăng sáng (1 loại máy chụp X-quang), một ống luồn đàn hồi được đưa vào vị trí đĩa đệm cần thiết. Đầu còn lại của ống được đặt dọc theo thành sau đĩa đệm (vị trí đĩa đệm gây đau) và được từ từ nâng nhiệt độ lên 90 độ C trong 15-16 phút. Cuối cùng ống luồn được rút ra, một lượng nhỏ thuốc kháng sinh và thuốc tê được tiêm vào trong đĩa đệm để giảm khó chịu cho bệnh nhân và tránh nguy cơ nhiễm trùng. Nếu ống luồn không đủ chạy dọc toàn bộ thành sau của đĩa đệm, sau lần chạy nhiệt lần đầu, ông thứ hai sẽ được đưa vào từ vị trí đối diện và chạy nhiệt lần hai.
Sau thủ thuật, bệnh nhân được mặc áo nẹp cột sống để hỗ trợ phần thấp cột sống thắt lưng và bệnh nhân cũng nên tránh vận động mạnh phần này trong những ngày đầu sau khi thực hiện kỹ thuật, có thể dùng thuốc giảm đau trong giai đoạn hồi phục ban đầu. Sau hai tuần đeo nẹp cột sống hỗ trợ, bệnh nhân sẽ tập các bài tập phục hồi chức năng trong bốn tuần, tập trung vào các bài giúp tăng cường lực hệ cơ vùng thấp thắt lưng và được khuyến khích hoạt động lại bình thường.

Tỷ lệ thành công và các nguy cơ, biến chứng

Nhiều nghiên cứu đã đưa ra con số 50-60% bệnh nhân sau áp dụng IDET đạt được kết quả giảm đau hiệu quả. Một nghiên cứu điểm mù có đối chứng (tiêu chuẩn vàng trong y học để xác định khách quan tỉ lệ thành công của một phương pháp bất kì) được thực hiện bởi Pauza Howel, Dreyfuss và các cộng sự đã chỉ ra 40% bệnh nhân thực hiện IDET đạt được hiệu quả giảm đau hơn 50%. Điều quan trọng cần chú ý là việc lựa chọn bệnh nhân kĩ lưỡng và cẩn trọng trong quá trình đặt ống thông IDET để đốt là 2 yếu tố đóng vai trò quan trọng trong hiệu quả điều trị của phương pháp này. Bệnh nhân có thoái hóa đĩa đệm đốt sống nhẹ được đánh giá là đáp ứng với điều trị IDET tốt hơn nhóm thoái hóa đĩa đệm mức độ nặng.
Có tối thiểu các nguy cơ, biến chứng liên quan đến IDET khi phương pháp này được thực hiện bởi các bác sĩ có kinh nghiệm. Ban đầu một số nguy cơ được quan tâm bao gồm nhiễm trùng khe đĩa đệm, tổn thương rễ thần kinh, thoái hóa đĩa đệm, thoát vị đĩa đệm hay đau tăng sau điều trị. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới nhất về IDET không cho thấy một biến chứng nguy hiểm nào và nguy cơ biến chứng thực sự được đánh giá là khá thấp.

Chống chỉ định áp dụng kỹ thuật IDET

Những bệnh nhân đáp ứng không tốt với điều trị bằng IDET bao gồm:

  • Béo phì
  • Phụ thuộc thuốc ngủ trước hoặc sau điều trị bằng IDET
  • Hẹp khe đĩa đệm nhiều
  • Thoát vị đĩa đệm lớn
  • Thoái hóa đĩa đệm lan tỏa
  • Số đốt sống có triệu chứng gây đau từ ba đốt trở lên

Tóm lại, tuy chưa xác định được chính xác về cơ chế giảm đau và vẫn còn tỉ lệ điều trị chưa thành công, IDET là một phương pháp an toàn và ít xâm lấn có thể mang lại hiệu quả giảm đau tốt, giúp bệnh nhân tránh được những nguy cơ của một cuộc phẫu thuật cột sống (như cố định cột sống, ghép xương hay thay thế đĩa đệm..). Cân nhắc lựa chọn đối tượng đúng và cẩn trọng trong việc đặt đúng ống luồn IDET vào vị trí tổn thương của đĩa đệm là hai yếu tố quan trọng để mang lại hiệu quả giảm đau mong đợi cho bệnh nhân.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Đừng bỏ lỡ

Bài viết mới

More article