Mỗi ngày diễn ra hàng trăm hàng nghìn các cuộc phẫu thuật, có những ca hồi phục hoàn toàn, nhưng có những ca bệnh nhân lại tử vong do nhiều nguyên nhân như nhồi máu não, ngưng tim.. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những nguyên nhân đột tử mà thường gặp sau những cuộc phẫu thuật.
Đột tử (Sudden Death) là hiện tượng một người chưa ghi nhận bệnh gì trước đây đột ngột tử vong. Đột tử có thể xảy ra khi đang làm việc hoặc xảy ra trong khi ngủ. Đây là một trong những thách thức của người thầy thuốc. Và bao năm qua, y học đã luôn cố gắng kiếm tìm NGUYÊN NHÂN gây nên những tình huống đó, có như vậy mới hy vọng “ngăn ngừa-giải quyết” được vấn đề.
NGUYÊN NHÂN CHÍNH GÂY ĐỘT TỬ
Theo thống kê của hội tim mạch Hoa Kỳ và trung tâm y khoa Mayo Clinic, có 4 nhóm nguyên nhân chính gây nên đột tử cả trong lẫn ngoài bệnh viện, chúng bao gồm:
Nguyên nhân tim mạch
Trong đó chủ yếu là ngừng tim và nhồi máu cơ tim. Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đột tử. Mỗi năm có khoảng 326000 bệnh nhân bị ngưng tim tại Mỹ và chỉ có tầm 10.8% sống sót, trong đó nam giới chiếm phần đa. Còn với nhồi máu cơ tim, chỉ tính tại nước Mỹ, cứ mỗi 43 giây lại có 1 người bị, trong đó khoảng 1/5 các trường hợp không có triệu chứng lâm sàng. Rộng lớn hơn, theo dữ liệu y tế được tổng hợp từ hơn 190 quốc gia cho thấy bệnh tim vẫn là nguyên nhân gây tử vong số 1 trên toàn cầu với 17,3 triệu ca tử vong mỗi năm và dự kiến con số này sẽ tăng lên hơn 23,6 triệu vào năm 2030.
Nguyên nhân gây ngừng tim thường do bệnh cơ tim phì đại (là bệnh có yếu tố di truyền và đây là nguyên nhân hay gặp nhất), bất thường động mạch vành, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, hội chứng Brugada…
Có một tổn thương ngừng tim hay xảy đến với các vận động viên thể thao lúc đang thi đấu và các huấn luyện viên cũng cần biết được y học gọi là Commotio Cordis. Đó là hiện tượng một vật tác động thẳng trực tiếp và đột ngột vào thành ngực xảy đến trong thì tái cực của tim dẫn đến rung thất và ngừng tim. Tổn thương gặp hầu hết nam giới tuổi thiếu niên, hiếm gặp với người trên 20 tuổi.
Đột quỵ (Tai biến mạch máu não)
Đây là nhóm nguyên nhân thứ hai dẫn đến cái chết đột ngột nhưng lại thường bỏ qua. Có 2 loại đột quỵ: do nghẽn mạch máu não hoặc do vỡ mạch máu não. Đột quỵ nghẽn mạch chiếm phần lớn (80%), thường có liên quan đến bệnh tim mạch và mỡ máu cao trong khi đột quỵ vỡ mạch máu thường do cao huyết áp không được kiểm soát và uống nhiều rượu.
Tai biến mạch não thường gặp ở người trên 60 tuổi, nam nhiều hơn nữ nhưng nếu xảy đến ở nữ, tiên lượng nặng nề hơn.
Đột tử do cục máu đông làm tắc mạch phổi (thuyên tắc mạch phổi)
Cục máu đông xuất hiện ở động mạch phổi làm tắc hệ thống mạch máu vào-ra phổi trao đổi khí dẫn đến cơ thể thiếu oxy đột ngột và tử vong.
Các cục máu sâu thường hình thành khi chúng ta không hoạt động trong thời gian dài. Kết quả là, tắc mạch phổi thường xảy đến ở những người nằm liệt giường vì một căn bệnh nghiêm trọng hoặc chấn thương, hoặc những người đang hồi phục sau phẫu thuật. Nguy cơ này cũng tăng lên đối với những người ngồi lâu không vận động trong các chuyến bay đường dài hoặc các chuyến đi bằng ô tô.
Vỡ động mạch chủ
Động mạch chủ là động mạch lớn nhất trong cơ thể, bao gồm một đoạn chạy trong ngực và một đoạn chạy trong bụng, có nhiệm vụ như dòng kênh lớn nhất giúp lưu chuyển máu đi khắp cơ thể. Vì một lý do nào đó (tuổi già, bệnh mạn tính, nhiễm trùng, cao huyết áp…) làm thành mạch yếu đi, phình ra, gây nên phình động mạch chủ. Một trong số đó vỡ sẽ gây nên bệnh cảnh vỡ động mạch chủ, bệnh nhân mất máu rất nhanh và ồ ạt, 90% tử vong trong tích tắc.
Đây là tối cấp cứu trong ngoại khoa tuy nhiên hầu hết mọi người ít nghĩ đến trong cuộc sống hằng ngày.
BIỆN PHÁP DỰ PHÒNG ĐỘT TỬ
Trong gây mê hồi sức còn một nhóm nguyên nhân gây đột tử nữa chính là sốc phản vệ và trào ngược dị vật vào đường thở. Với những bệnh cảnh ở trên, chúng ta hầu như có rất ít thời gian để xử lý, hoặc nếu có thì những hậu quả, di chứng để lại cho bệnh nhân cũng vô cùng nặng nề (sống thực vật, liệt nửa người, khuyết hụt thần kinh khu trú…). Vậy nên mọi người cần xây dựng lối sống lành mạnh và thực hành phòng bệnh, vì đó là yếu tố quyết định giúp ta hạn chế được rủi ro đột tử bất cứ lúc nào. Những nội dung dự phòng chính bao gồm:
Đột tử do ngừng tim
- Ngay cả ở nước Mỹ thì việc sàng lọc và kiểm soát những người có nguy cơ bị ngừng tim cũng vô cùng khó khăn và chưa hiệu quả. Vậy nên, dự phòng bằng cách giải quyết các yếu tố nguy cơ chính là chìa khóa của vấn đề.
- Những rủi ro ngưng tim bao gồm người hút thuốc lá, dùng thuốc an thần lâu dài, bệnh tăng mỡ máu, bệnh cao huyết áp, và một số bệnh lý khác như ung thư hoặc bệnh tự miễn. Chúng ta cần kiểm soát tốt những nội dung trên.
- Caffeine và nicotine, cả hai đều có thể làm tăng nhịp tim và làm trầm trọng thêm vấn đề rối loạn nhịp tim đã tồn tại bằng cách làm cho tim đập nhanh hơn. Ngoài ra, thuốc bất hợp pháp như cocaine, amphetamines và các chất kích thích khác có thể gây rối loạn nhịp tim ngay cả ở những trái tim khỏe mạnh trước đây.
Tai biến mạch não và vỡ động mạch chủ
Những yếu tố dự phòng hằng đầu cho hai nhóm bệnh này bao gồm:
- Kiểm soát huyết áp, tiểu đường, không thuốc lá và hạn chế rượu là ưu tiên số một.
- Điều trị tốt bệnh lý tim như rung nhĩ, suy tim, bệnh mạch vành và chủ động khảo sát mạch máu não.
- Hạn chế lạm dụng thuốc ngừa thai, thuốc điều chỉnh học-môn sinh dục, thuốc giảm đau không kê đơn (Naproxen, Ibuprofen..), tránh lối ăn nhiều dầu mỡ chiên rán và những thức ăn nhanh.
- Người chơi thể thao hoặc trong cuộc sống hằng ngày thỉnh thoảng có đau ngực trái, tức ngực, hồi hộp đánh trống ngực, xỉu…hoặc tất cả mọi người trên 65 tuổi luôn nên cần chủ động đi khám tim mạch hằng năm.
- Thể thao đều đặn cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng, giúp trái tim và thành mạch thêm “dẻo dai” và đàn hồi, đồng thời làm giảm lượng mỡ máu, mảng cholesterol thừa bám trong thành mạch.
- Hết sức lưu ý với những ai đã từng có tiền sử chấn thương ngực-bụng, nhiễm trùng, phẫu thuật tim, lịch sử gia đình và di truyền…vì đây là những đối tượng có nguy cơ cao bị phồng lóc và vỡ động mạch chủ.
Xem thêm: NHỮNG THỰC PHẨM GIÚP GIẢM CĂNG THẲNG!
Thuyên tắc mạch phổi
Những lưu ý dự phòng chính cho thuyên tắc mạch phổi bao gồm:
- Phẫu thuật: Các phẫu thuật vùng bụng, xương chậu, thay khớp gối, khớp háng và gãy xương lớn như xương đùi… luôn có nguy cơ cao của thuyên tắc mạch phổi, đột tử. Người thầy thuốc cần thực hành dự phòng huyết khối trong phác đồ điều trị.
- Ung thư: Một số bệnh ung thư có tác dụng làm quánh máu làm tăng nguy cơ hình thành máu cục lang thang trong lòng mạch. Điều này đặc biệt đúng đối với ung thư vùng chậu-bụng ở giai đoạn u tiến triển.
- Mang thai và sinh con: Có nguy cơ thuyên tắc phổi cao hơn cả trong và ngay sau khi sinh con, đặc biệt đối với những người sinh mổ.
- Bệnh nhân nằm lâu sau mổ gãy xương, sau chấn thương cột sống liệt tay chân…luôn có nguy cơ cao tắc mạch phổi.
- Thuốc tránh thai, liệu pháp hormone, hút thuốc lá, người trên 70 tuổi, béo phì hoặc lịch sử tắc mạch phổi…cũng có nguy cơ cao bị tắc mạch phổi hơn những người khác.
Khi một bệnh nhân vào viện để điều trị bệnh, đặc biệt là để mổ xẻ, phẫu thuật viên cùng với bác sĩ gây mê sẽ khám xét cẩn thận, cho đi làm các xét nghiệm tối đa để vừa chẩn đoán bệnh chính phải mổ, vừa để phát hiện và xử lý các bệnh lý kèm theo như dị ứng thuốc, cao huyết áp, bệnh mạch vành, suy thận, tiểu đường, rối loạn nhịp tim….
Có như vậy, chúng ta mới có thể hạn chế tối đa những rủi ro của phẫu thuật. Vì tất cả những khảo sát đó cũng chưa thể loại trừ hoàn toàn những biến chứng có thể xảy đến trong và sau mổ, trong đó có những tai biến, biến chứng do mổ xẻ, nhưng cũng có thể là những vấn đề phát sinh mà nó đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta hoặc nó xảy đến đúng lúc vô tình người bác sĩ “đi qua”, đó chính là nhồi máu não, đó là nhồi máu cơ tim, đó là tắc mạch phổi, đó là sốc phản vệ…
Vậy nên, về phía nhân viên y tế, ngoài việc khám xét bệnh nhân cẩn thận, thực hành điều trị đúng phác đồ và chuyên môn thì việc gặp gỡ gia đình và bệnh nhân trước mổ để giải thích tình trạng bệnh, các nguy cơ của điều trị và phẫu thuật, những rủi ro có thể xảy đến với bệnh nhân (cả khách quan và chủ quan) là điều cần thiết, để người nhà và bệnh nhân có sự chuẩn bị tâm thế tốt nhất cho những trường hợp điều trị thành công hay thất bại.
Có như vậy, những mâu thuẫn xung đột mới có thể được xoa dịu, tháo gỡ đi phần nào. Và bệnh nhân-người nhà cũng cần thấu hiểu một vấn đề rất quan trọng trong thực hành y khoa, đó là dù nhân viên y tế có chuyên môn cũng như thực hành mổ xẻ cẩn thận đến đâu, thì những tai biến-biến chứng vẫn luôn có thể xảy đến, trong đó có những ca tử vong rất đột ngột đến từ những nguyên nhân đã nêu trên.